Luật thi đấu tennis điều 1-3
Điều 1: Sân
Sân quần vợt có hình chữ nhật với chiều dài 23,77 m, và chiều rộng 8,23 m. Lưới được căng ở chính giữa, chia sân thành hai phần đều nhau, buộc bằng một sợi dây thừng hoặc kim loại có đường kính tối đa 0,8 cm vào hai cột lưới. Cột lưới tròn có đường kính 15 cm, nếu vuông, có chiều dài cạnh 15 cm. Cột lưới chỉ được phép cao hơn mép trên của lưới tối đa 2,5 cm. Tâm của cột đặt cách mép ngoài đường biên dọc mỗi bên 0,914 m.
Chiều cao cột lưới phải buộc làm sao để mép trên lưới có độ cao 1,07 m so với mặt sân.
Khi kết hợp sân đánh đôi với sân đánh đơn và dùng lưới của sân đánh đôi để đánh đơn, lưới phải có chiều cao 1,07 m bằng cách dùng hai cọc chống ở hai bên.
Cọc chống nếu tròn, đường kính là 7,5 cm, nếu vuông, cạnh bằng 7,5 cm. Tâm của các cọc chống đặt cách mép ngoài của mỗi đường biên dọc của sân đơn là 0,914 m.
Lưới phải được căng sát đến hai cột lưới. Mắt lưới phải nhỏ để bóng không thể chui lọt. Chiều cao lưới ở giữa sân là 0,914 m, ở điểm này có một dải băng màu trắng, bản rộng 5 cm buộc giữ cho lưới ở độ cao quy định. Cạp lưới màu trắng, bản rộng không nhỏ hơn 5 cm, không lớn quá 6,35 cm. Từ mép trên đến mép dưới và ở hai bên của cạp hoàn toàn màu trắng.
Ở cuối hai bên sân là đường biên ngang (đường cuối sân), và ở hai bên mép là đường biên dọc. Ở mỗi bên của lưới, kẻ đường song song, cách lưới 6,4 m, gọi là đường giao bóng. Trong khoảng sân giữa lưới với đường giao bóng, kẻ một giới hạn phát bóng ở chính giữa rộng 5 cm, chia khoảng sân thành hai phần bằng nhau, song song với đường biên dọc và gặp điểm giữa của đường giao bóng. Hai phần sân này được gọi là ô giao bóng. Ở chính giữa đường biên ngang, kẻ một vạch mốc giao bóng rộng 5 cm, dài 10 cm, vuông góc với đường cuối sân và hướng vào trong mặt sân.
Sơ đồ sân đánh đơn và đánh đôi
Tất cả các đường kẻ khác trên sân không được phép nhỏ hơn 2,5 cm và lớn hơn 5 cm, ngoại trừ đường cuối sân có thể kẻ rộng 10 cm. Tất cả kích thước của những đường kẻ này được tính đến mép ngoài. Các đường kẻ phải cùng một màu.
Không được phép sử dụng cọc chống, sợi dây băng trắng và cạp lưới để quảng cáo. Nếu có quảng cáo hoặc các đồ vật khác ở quanh sân thì chúng không được sử dụng màu trắng hoặc vàng. Có thể dùng màu nhạt nếu không ảnh hưởng đến tầm nhìn của các tay vợt.
Ghi chú 1: Tại các giải đấu chính thức của Liên đoàn Quần vợt thế giới, cần có một khoảng rộng ở sau mỗi đường biên ngang không dưới 6,4 m và ở hai bên không ít hơn 3,66 m. Các ghế của trọng tài biên có thể đặt ở cách sau khoảng cách chạy đà cuối sân 6,4 m trở ra và ở hai bên cũng phải ngoài giới hạn 3,66 m.
Ghi chú 2: Tại Davis Cup và Fed Cup thì khoảng trống của sân quần vợt ở sau hai bên đường cuối sân không nhỏ hơn 8,23 m và khoảng trống ở hai bên đường biên dọc không ít hơn 4,57 m.
Ghi chú 3: Ở các CLB hoặc khu giải trí, khoảng trống ở sau hai bên đường cuối sân không nhỏ hơn 5,5 m và khoảng trống ở hai bên đường biên dọc không nhỏ hơn 3,05 m.
Điều 2: Thiết bị cố định
Các thiết bị cố định của sân không chỉ gồm có lưới, cột lưới, cọc chống, dây căng lưới, cạp lưới, mà còn cả tường hay lưới chắn quanh sân, các bậc ngồi, ghế ngồi cố định hay di động xung quanh sân và cả những người ngồi. Mọi thứ khác xung quanh và trên sân, trọng tài chính, trọng tài biên và người nhặt bóng khi đứng đúng vị trí cũng được coi là thiết bị cố định.
Ghi chú: Trong khuôn khổ luật này, từ trọng tài bao hàm cả người ngồi trên sân điều khiển trận đấu và những người khác được chỉ định giúp đỡ trọng tài chính trong suốt trận.
Điều 3: Bóng
Tất cả các loại bóng được sử dụng tại các trận đấu quần vợt phải đáp ứng các tiêu chuẩn của Liên đoàn Quần vợt thế giới, bao gồm:
a. Bóng phải có mặt ngoài giống nhau, phủ bằng một lớp nỉ và có màu vàng hoặc trắng. Nếu có đường chắp nối, phải không để lộ mũi khâu.
b. Bóng có đường kính từ 6,35 cm đến 6,67 cm và trọng lượng nằm trong khoảng từ 56g tới 59,4g.
c. Mỗi quả bóng phải có độ nảy nằm trong khoảng từ 134, 62 cm đến 147, 62 cm khi thả từ độ cao 254 cm xuống nền bê tông. Loại thứ nhất (tốc độ nhanh) có độ biến dạng về phía trước lớn hơn 0,495 cm và nhỏ hơn 0,597 cm; biến dạng sau lớn hơn 0,749 cm và nhỏ hơn 0,965 cm khi có lực tác động 8,165 kg vào bóng. Đối với loại hai và ba (tốc độ trung bình và chậm) phải có độ biến dạng về phía trước lớn hơn 0,559 cm và nhỏ hơn 0,737 cm; độ biến dạng sau lớn hơn 0,800 cm và nhỏ hơn 1,080 cm khi có lực tác động 8,165 kg. Các biến dạng này là trị số trung bình ba lần đọc số riêng rẽ theo ba trục của quả bóng, và các số đọc từng đôi không khác nhau quá 0,076 cm trong mỗi trường hợp.
d. Khi thi đấu ở độ cao trên 1.219 m so với mặt nước biển, có thể sử dụng hai loại bóng bổ sung:
– Loại thứ nhất có các quy định giống như đã mô tả ở trên, trừ trị số độ nẩy có thể lớn hơn 121,92 cm, nhỏ hơn 134, 62 cm và có một áp suất bên trong lớn hơn áp suất bên ngoài. Loại này thường được gọi là bóng có độ nén.
– Loại thứ hai cũng có các chỉ tiêu như đã mô tả ở trên, trừ trị số về độ nảy nhiều hơn 134,62 cm, nhỏ hơn 147,32 cm và có áp suất bên trong tương đương với áp suất bên ngoài. Ngoài ra, loại bóng này còn phải được thích nghi với khí hậu và độ cao ở nơi diễn ra giải đấu, ít nhất là 60 ngày. Loại bóng này thường được gọi là bóng có độ nén bằng không hoặc bóng không có độ nén. Loại thứ ba như đã nói ở phần c (loại có tốc độ chậm) có thể sử dụng cho bất kỳ mặt sân nào ở độ cao trên 1.219 m so với mặt nước biển.
– Mọi sự kiểm tra về độ nảy, kích thước và độ biến dạng đều phải tuân theo các quy định riêng (trong phụ lục 1).